Buổi đầu châu Âu hiện đại Lịch_sử_châu_Âu

Châu Âu năm 1519Châu Âu như một nữ hoàng, in năm 1570 bởi Sebastian Munster của Basel.Vitruvian Man của Leonardo da Vinci thể hiện tầm nhìn của ông về con người tỷ lệ hoàn hảo.

Thời kỳ tiền hiện đại trải dài nhiều thế kỷ giữa Thời kỳ Trung Cổ và cuộc Cách mạng công nghiệp, khoảng từ năm 1500 đến năm 1800, hay từ sự phát hiện Thế giới mới năm 1492 tới cuộc Cách mạng Pháp năm 1789.Thời kỳ này có đặc điểm ở sự nổi lên quan trọng của khoa học và sự phát triển ngày càng nhanh của kỹ thuật, chính trị dân sự thế tụcquốc gia. Các nền kinh tế tư bản bắt đầu phát triển, bắt đầu từ các nước cộng hòa miền bắc Ý như Genoa. Thời kỳ tiền hiện đại cũng chứng kiến sự nổi lên thống trị của lý thuyết kinh tế trọng thương. Như vậy, thời kỳ tiền hiện đại thể hiện sự suy tàn và biến mất, ở hầu hết châu Âu, của chủ nghĩa phong kiến, chế độ nông nô và quyền lực của Giáo hội Công giáo. Giai đoạn này còn bao gồm cuộc Cải cách Tin lành, cuộc Chiến tranh Ba mươi năm tàn khốc, cuộc thực dân hóa châu Mỹ của châu Âu và những cuộc săn lùng phù thủy châu Âu.

Phục hưng

Bài chi tiết: Phục hưng

Phục hưng là một phong trào văn hóa ảnh hưởng sâu rộng tới đời sống trí thức châu Âu ở đầu thời kỳ hiện đại. Bắt đầu ở Ý, và lan ra phía bắc và phía tây trong một cuộc mở rộng văn hóa chậm chạp khoảng hai thế kỷ rưỡi, nó gây ảnh hưởng trên văn học, triết học, nghệ thuật, chính trị, khoa học, lịch sử, tôn giáo, và các mặt khác của đời sống trí tuệ.

Petrarch người Ý (Francesco di Petracco), dường như là nhà nhân loại học hoàn toàn đầu tiên, đã viết hồi những năm 1330: "Tôi hiện đang sống, tuy thế tốt hơn là tôi được sinh ra ở một thời điểm khác." Ông rất say mê Hy Lạp và La Mã cổ đại. Ở thế kỷ 15 và 16 niềm mê say với những điểu cổ đại được tăng cường thêm bởi cảm giác nền văn hóa được thừa hưởng đang tan vỡ và thời điểm ấy chỉ là một kho chứa những ý tưởng và cách hành xử để tái xây dựng lại. Matteo Palmieri đã viết những năm 1430: "Hiện giờ quả thực mọi ý tưởng tinh thần phải tạ ơn chúa rằng chúng đã được cho phép được sinh ra trong một thời đại mới." Sự phục hưng ra đời: một thời đại mới khi học tập trở thành rất quan trọng.

Phục hưng bắt nguồn từ sự phát triển trong nghiên cứu các văn bản Latinh và Hy Lạp cổ và sự ngưỡng một thời kỳ Hy Lạp-La Mã coi đó là thời kỳ vàng son. Điều này khiến nhiều nghệ sĩ và tác gia bắt đầu đưa các khuôn mẫu thời La Mã và Hy Lạp vào trong tác phẩm của họ, nhưng cũng có nhiều sáng tạo trong giai đoạn này, đặc biệt là những nghệ sĩ đa tài như Leonardo da Vinci. Nhiều văn bản La Mã và Hy Lạp đã tồn tại từ Thời Trung Cổ châu Âu. Các thầy tu đã sao chép và tái sao chép các văn bản cũ và giữ chúng trong hàng nghìn năm, nhưng họ đối xử với chúng một cách khác. Nhiều văn bản khác nữa đi tới với làn sóng di cư của các học giả Hy Lạp tới Ý sau Sự sụp đổ của Constantinopolis trong khi các văn bản Hy Lạp và La Mã khác tới từ các nguồn Hồi giáo, họ có được những văn bản và trí thức này thông qua các cuộc chinh phục, thậm chí đã tìm cách cải tiến một số chúng.[cần dẫn nguồn] Với lòng tự trọng thường thấy của các nhà tư tưởng tân tiến, những nhà nhân loại học coi sự tái sở hữu một quá khứ lẫy lừng là một sự Phục hưng - một sự tái sinh của chính nền văn minh.

Những sự kiện chính trị quan trọng cũng xuất hiện trong thời kỳ này. Văn bản chính trị của Niccolò Machiavelli trong Quân Vương (The Prince) đã ảnh hưởng tới chủ nghĩa chuyên chế và đời sống chính trị sau này. Các ông vua cai trị các quốc gia và sử dụng giới nghệ sĩ Phục hưng như một dấu hiệu quyền lực cũng đóng một vai trò quan trọng trong thời kỳ này.

Tổng thể, Phục hưng có thể được coi như một nỗ lực của giới trí thức nhằm nghiên cứu và cải thiện thế tục và trần gian, thông qua sự tái sinh các ý tưởng thời cổ, và thông qua những tiếp cận tư tưởng - quá khứ ngay trước quá "Gothic" trong ngôn ngữ, tư tưởng và tình cảm.

Cải cách

Bài chi tiết: Cải cách Tin Lành
Luận cương chín nhăm điểm của thầy tu Martin Luther người Đức phá vỡ quyền lực chuyên chế Giáo hoàng

Trong giai đoạn này sự mục nát trong Giáo hội Công giáo đã dẫn tới một sự phản ứng trong Cải cách Tin Lành. Phong trào này được nhiều người ủng hộ đặc biệt với các hoàng thân và các vị vua đang tìm kiếm một nhà nước mạnh hơn bằng cách chấm dứt ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo. Những cá nhân khác cùng Martin Luther bắt đầu xuất hiện như John Calvin với thuyết Calvin gây ảnh hưởng ở nhiều quốc gia và Vua Henry VIII của Anh đã rời bỏ Giáo hội Công giáo Anh và thiết lập Giáo hội Anh (Trái với niềm tin của mọi người điều này chỉ đúng một nửa, con gái ông là Nữ hoàng Elizabeth hoàn thành việc tổ chức Giáo hội). Những sự phân ly tôn giáo này đã mang lại một làn sóng chiến tranh có nguyên nhân tôn giáo nhưng cũng bởi các tham vọng của những triều đình Tây Âu đang trở nên tập trung và hùng mạnh hơn.

Cuộc Cải cách Tin Lành cũng dẫn đến một phong trào cải cách mạnh bên trong Giáo hội Công giáo được gọi là Phản Cải cách, với mục tiêu giảm sự mục nát bên trong cũng như tăng cường sức mạnh của quyền lực giáo hội Công giáo. Một nhóm quan trọng bên trong Giáo hội Công giáo xuất hiện từ phong trào này là Dòng Tên giúp giữ Đông Âu ở trong vòng ảnh hưởng của Công giáo. Tuy thế, Giáo hội Công giáo vẫn bị suy yếu bởi cuộc Cải cách, nhiều phần ở châu Âu không còn nằm trong vùng ảnh hưởng của nó và các vị vua ở các nước vẫn theo Công giáo bắt đầu nắm quyền kiểm soát các định chế giáo hội trong vương quốc của họ.

Không như Tây Âu, các nước Trung Âu, Vương quốc Ba Lan và Đại Công quốc LitvaHungary, khoan dung hơn. Tuy vẫn thúc đẩy sự thống trị của Công giáo họ tiếp tục cho phép các nhóm tôn giáo thiểu số duy trì đức tin của mình. Trung Âu bắt đầu bị phân chia giữa Công giáo, Tin Lành, Chính Thống giáo và Do Thái giáo. Một sự phát triển quan trọng khác trong giai đoạn này là sự lớn mạnh của những tình cảm liên châu Âu. Eméric Crucé (1623) xuất hiện với ý tưởng Hội đồng châu Âu, mong muốn chấm dứt các cuộc chiến tranh ở châu Âu; những nỗ lực tạo lập một nền hòa bình vĩnh cửu không thành công, dù tất cả quốc gia châu Âu (ngoại trừ Nga và Đế chế Ottoman, được xem là ngoại lệ) đồng ý tạo lập hòa bình vào năm 1518 trong Hiệp ước Luân Đôn. Nhiều cuộc chiến tranh lại bùng nổ chỉ trong vài năm. Cuộc cải cách cũng khiến nền hòa bình ở châu Âu là điều không thể trong nhiều thế kỷ.

Một sự phát triển khác là ý tưởng thượng đẳng của châu Âu. Ý tưởng về văn minh được lấy từ người Hy Lạp và La Mã cổ đại: kỷ luật, giáo dục và cuộc sống trong thành phố là các yếu tố khiến con người trở nên văn minh; người châu Âu và phi châu Âu được phán xét theo tính cách lịch sự của họ, và châu Âu tự coi mình là thượng đẳng so với các lục địa khác. Đã có một phong trào của một số người như Montaigne coi người phi châu Âu là tốt hơn, tự nhiên và nguyên thủy hơn. Các dịch vụ thư tín đã được thiết lập khắp châu Âu, cho phép chủ nghĩa nhân văn kết nối mạng lưới trí thức trên khắp châu Âu, dù có những khác biệt tôn giáo. Tuy nhiên, Giáo hội Công giáo đã cấm các tác phẩm khoa học mang tính đột phá; điều này dẫn đến sự phát triển mạnh hơn của trí thức tại các quốc gia Tin Lành, nơi việc cấm đoán không triệt để. Francis Bacon và những người khác ủng hộ khoa học tìm cách tạo lập một sự thống nhất ở châu Âu bằng cách nhấn mạnh vào sự thống nhất trong thiên nhiên.1 Ở thế kỷ 15, cuối Thời Trung Cổ, các quốc gia có chủ quyền hùng mạnh xuất hiện, xây dựng những Vương triều Mới với quyền lực tập trung tại Pháp, Anh, và Tây Ban Nha. Mặt khác Nghị viện của Vương quốc Ba Lan và Đại Công quốc Litva tăng cường quyền lực, nắm các quyền lập pháp của vua Ba Lan. Quyền lực nhà nước mới đã được tranh giành bởi các nghị viện ở các quốc gia khác đặc biệt là Anh. Các hình thái nhà nước mới xuất hiện là sự hợp tác giữa các vị lãnh chúa đất đai, các thành phố, các nước cộng hòa nông dân và các hiệp sĩ.

Thám hiểm và chinh phục

Một cảng biển của Villa Medici năm 1638 của Claude Lorrain

Nhiều cuộc chiến tranh không ngăn cản các quốc gia mới thám hiểm và chinh phục những vùng rộng lớn của thế giới, đặc biệt là châu Á (Xibia) và Châu Mỹ mới được khám phá. Ở thế kỷ 15, Bồ Đào Nha lãnh đạo cuộc thám hiểm địa lý, tiếp đó là Tây Ban Nha hồi đầu thế kỷ 16. Đây là những nước đầu tiên thiết lập thuộc địa tại châu Mỹ và các địa điểm thương mại trên bờ biển châu Phi và châu Á, nhưng Pháp, AnhHà Lan nhanh chóng theo bước. Năm 1552, Nga hoàng Ivan Hung bạo chinh phục hai khả hãn quốc Tatar lớn, KazanAstrakhan, và chuyến đi của Yermak năm 1580 dẫn tới sự sáp nhập vung Xibia vào nước Nga.

Sự mở rộng thuộc địa tiếp tục diễn ra trong những thế kỷ sau đó (với một số lần thoái trào, ví dụ như những cuộc chiến giành độc lập thắng lợi ở 13 thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ và sau đó là Mexico, Brazil, và các quốc gia khác ngoại vi Các cuộc chiến tranh Napoleon). Tây Ban Nha đã kiểm soát một phần Bắc Mỹ và một vùng lớn ở Trung Mỹ và Nam Mỹ, CaribbeanPhilippines; Anh Quốc chiếm toàn bộ ÚcNew Zealand, hầu hết Ấn Độ, và nhiều vùng lớn ở châu Phi và Bắc Mỹ; Pháp giữ nhiều vùng của Canada và Ấn Độ (hầu như toàn bộ đã mất vào tay Anh năm 1763), Đông Dương, nhiều vùng lớn ở châu Phi và các đảo Caribbean; Hà Lan giành được Đông Ấn (hiện là Indonesia) và các hòn đảo Caribbean; Bồ Đào Nha chiếm Brasil và nhiều lãnh thổ ở châu Phi và châu Á; và các cường quốc sau này như Đức, Bỉ, ÝNga cũng đi chiếm thuộc địa.

Sự mở rộng này đã giúp các nền kinh tế của các nước mẫu quốc phát triển. Thương mại tăng vọt, nhờ sự ổn định tạm thời của các đế chế. Tới cuối thế kỷ 16 số bạc của châu Mỹ chiếm một phần năm tổng ngân sách Tây Ban Nha.[34] Các nước châu Âu tiến hành các cuộc chiến tranh với phần lớn chi phí từ các thuộc địa. Tuy vậy, những lợi nhuận từ buôn bán nô lệ và các loại thực vật Tây Ấn, là những khoản thu lớn nhất từ các thuộc địa Anh thời kỳ đó, chiếm chưa tới 5% nền kinh tế Đế quốc Anh (nhưng nói chung có lợi nhuận lớn hơn) ở thời kỳ Cách mạng Công nghiệp hồi cuối thế kỷ 18.

Vào năm 1514, quân Ottoman do Sultan Selim I (trị vì: 1512 - 1520) thân chinh thống lĩnh đánh Ba Tư, phát huy những cuộc chinh phạt của Đế quốc Ottoman sau khi thành Constantinopolis sụp đổ. Con trai của ông ta là Suleiman I Đại Đế (trị vì: 1520 - 1566) lần lượt đánh chiếm các Nhà nước Khalip trước đây là Damascus, CairoBagdad (1534). Sau khi Sultan Suleiman I thêm ngôi mộ của nhà tiên tri Muhammad tại thành Mecca vào Đế quốc của ông ta, giờ đây ông ta có lý do chính đáng để xưng Đế hiệu "Padishah-i-Islam" (Hoàng đế của Hồi giáo). Ông ta cho xây dựng nhiều công trình, chẳng hạn như Thánh đường Hồi giáo Süleymaniye tại kinh đô Constantinopolis, thể hiện sự hùng mạnh của đất nước.[33]

Quân Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman không những qua thung lũng sông Danube đánh xứ Hungary, mà còn lâm chiến với những nhà nước hải tặc ở bờ biển Bắc Phi. Vào năm 1512, họ mở đầu những cuộc chinh chiến sông Danube, thôn tính được xứ Moldavia. Thành Beograd thất thủ vào năm 1521, mở đường cho quân Thổ Nhĩ Kỳ đánh xứ Hungary. Vào năm 1526, trong trận Mohács, vị vua độc lạp cuối cùng của xứ Bohemia và Hungary là Louis II Jagiellon hy sinh. Đến lượt nước Áo lâm vào hiểm nguy, vào năm 1529 quân Thổ Nhĩ Kỳ vây hãm thành Viên nhưng bị đẩy lui. Sau đó, họ vẫn tấn công dữ dội vào thung lũng sông Danube. Theo thỏa thuận vào năm 1558, xứ Hungary bị chia cắt: Áo chiếm lĩnh miền Tây; miền Trung Hungary, có cả cố đô Budapest rơi vào tay Thổ Nhĩ Kỳ, xứ Transylvannia thì trở thành một Công quốc do Thổ Nhĩ Kỳ bảo hộ. Sau đó, quân Áo và quân Thổ vẫn tiếp tục đụng độ nhau cho đến năm 1568, với Hòa ước Adrianople, Triều đình Áo phải triều cống cho Thổ Nhĩ Kỳ.[33]

Tại vùng Địa Trung Hải, quân Thổ Nhĩ Kỳ tấn công đảo Ródos, các Hiệp sĩ Cứu tế phải đầu hàng (1522). Quân Thổ lần lượt chiếm đóng xứ Algérie (1529), xứ Tripoli (1551), xứ Síp (1571) và xứ Tunis (1574). Quân Thổ cũng tấn công ác liệt vào xứ Malta nhưng bị đẩy lui (1565). Vào năm 1571, một cuộc Thập Tự Chinh cuối cùng bùng nổ: Hải quân Tây Ban Nha - Venezia - Genoa đại phá Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ trong trận Lepanto. Với các cuộc chinh phạt của quân Thổ Nhĩ Kỳ, nền văn minh châu Âu đã phải hứng chịu ảnh hưởng từ Thổ, là lần đầu tiên người châu Âu nếm mùi phong cách phương Đông. Và, khi cuộc cải cách Kháng Cách đang lên tới đỉnh cao thì quân Thổ Nhĩ Kỳ giao chiến ác liệt với quân Công giáo, do đó Sultan trở thành đồng minh thân cận nhất của Luther.[33]

Cuộc chiến tranh Ba mươi năm và trào lưu Khai sáng

Trận Nördlingen trong cuộc Chiến tranh ba mươi năm.

Trong suốt thời kỳ đầu giai đoạn này, chủ nghĩa tư bản (thông qua Chủ nghĩa trọng thương) đã thay thế chế độ phong kiến trở thành hình thức tổ chức kinh tế chủ chốt, ít nhất ở nửa phía tây châu Âu. Sự mở rộng các biên giới thuộc địa dẫn tới một cuộc Cách mạng thương mại. Giai đoạn này đáng chú ý ở sự nổi lên của khoa học hiện đại và sự áp dụng các thành tựu khoa học vào cải tiến kỹ thuật, dẫn tới cuộc Cách mạng công nghiệp. Sự khai thác Thế giới mới của Bán đảo Iberia (Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, bắt đầu tư chuyến đi về phía tây của Christopher Columbus nhằm tìm kiếm một con đường thương mại ngắn hơn tới Đông Ấn năm 1492, nhanh chóng gặp sự cạnh tranh của người Anhngười Pháp[35]. Các hình thức thương mại và mở rộng thương mại hình thành nên các hình thức chính phủ, luật phápkinh tế mới cần thiết.

Cuộc cải cách đã làm tổn hại lớn tới sự thống nhất của châu Âu. Không chỉ các quốc gia bị chia rẽ khỏi nhau mà cả giữa phương hướng tôn giáo của họ, nhưng một số nước còn bị chia rẽ từ bên trong bởi các cuộc tranh giành tôn giáo, được ủng hộ mạnh từ các kẻ thù bên ngoài. Trong thế kỷ 16 Pháp đã trải qua tình trạng này với một loạt những cuộc xung đột được gọi là Các cuộc chiến tranh tôn giáo Pháp, chấm dứt với sự thắng lợi của Triều đại Bourbon. Anh Quốc tránh được trong một giai đoạn và xử lý được dưới thời Nữ hoàng Elizabeth để xoa dịu Giáo phái Anh. Đa phần nước Đức hiện đại ngày nay được hình thành nên từ nhiều quốc gia có chủ quyền nhỏ dưới hình thức Đế chế La Mã thần thánh lý thuyết. Vương quốc Ba Lan và Đại Công quốc Litva đáng chú ý ở thời điểm này về sự không quan tâm đến tôn giáo và nói chung miễn nhiễm với các cuộc tranh giành tôn giáo ở châu Âu.

Cuộc chiến tranh ba mươi năm từ 1618 tới 1648, chủ yếu diễn ra trên lãnh thổ Đức ngày nay, và liên quan tới hầu hết cường quốc châu Âu. Khởi đầu như một cuộc xung đột tôn giáo giữa những người Tin Lành và Công giáo trong Đế chế La Mã thần thánh, nó dần phát triển thành một cuộc chiến của hầu hết châu Âu, vì các lý do không nhất thiết liên quan tới tôn giáo.[36] Từ năm 1630 cho đến năm 1635, quân Thụy Điển can thiệp vào cuộc chiến, vua Gustav II Adolf kéo quân lên đánh vào năm 1631. Ông đánh tan tác quân Công giáo trong các trận BreitenfeldLützen - nơi ông hy sinh.[37][38] Tác động chính của cuộc chiến tranh, trong đó các đội quân vụ lợi được sử dụng rộng rãi, là sự tàn phá với toàn bộ vùng. Các giai đoạn bùng phát của nạn đóibệnh dịch làm sút giảm dân số các lãnh thổ Đức, ở một mức độ thấp hơn gồm cả Các quốc gia vùng thấp và Ý, và làm kiệt quệ các cường quốc tham gia. Khoảng một phần tư tới một phần ba dân số Đức thiệt mạng vì các nguyên nhân chiến tranh hay bởi nạn đói liên quan tới chiến tranh.[39] Cuộc chiến kéo dài ba mươi năm, nhưng những cuộc xung đột dẫn đến nó tiếp tục không được giải quyết trong khoảng thời gian lâu hơn thế.

Sau Hòa bình Westphalia, các biên giới châu Âu vẫn ổn định năm 1708

Sau Hòa bình Westphalia chấm dứt chiến tranh có lợi cho các quốc gia quyết định liên minh tôn giáo của riêng mình, chế độ quân chủ chuyên chế trở thành tiêu chuẩn của châu lục, tuy nhiều phần của châu Âu đã thử nghiệm hình thức lập hiến với ảnh hưởng từ cuộc Nội chiến Anh và đặc biệt là cuộc Cách mạng Vinh Quang - được xem là một cuộc Cách mạng không đổ máu.[40] Xung đột quân sự ở châu Âu không dừng lại, nhưng ít tính phá hủy hơn với đời sống châu Âu. Trong cuộc mở rộng về phía tây bắc, Thời đại Khai sáng đã mang lại một căn bản triết học cho tầm nhìn mới, và sự mở rộng tiếp tục của tri thức, được tăng cường bởi báo in, tạo ra các lực đẩy phi tôn giáo mới trong ý tưởng. Một lần nữa, Vương quốc Ba Lan và Đại Công quốc Litva lại đứng ngoài trào lưu này, với cái gọi là Tự do vàng kiểu dân chủ của riêng nó.

Đông Âu là một khu vực tranh giành ảnh hưởng giữa Thụy Điển, Vương quốc Ba Lan và Đại Công quốc LitvaĐế chế Ottoman. Quân Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman kéo đến sông Dniester, và phải nếm mùi sức mạnh của Kỵ binh nhẹ Ba Lan trong trận Chocim.[33] Quân Thổ lại vây hãm thành Viên vào năm 1683, nhưng bị đánh tan tác trong trận Viên. Đế quốc Ottoman suy yếu.[41] Một kiệt tướng của Quân đội Áo là Eugène xứ Savoie vào năm 1717,[42] nhưng quân Áo thua trận, lại mất thành về tay quân Thổ vào năm 1739.[43] Quân Áo giải phóng xứ Hungary khỏi ách đô hộ của Thổ, nhưng nhanh chóng lộ ra bộ mặt giả nhân giả nghĩa của họ. Vào năm 1687, Áo xóa bỏ nền quân chủ bầu cử lâu đời của nhân dân Hungary. Quốc hội Quý tộc Hungary thì trở thành những người chép sổ Thánh chỉ của Hoàng gia Áo. Áo cũng tiêu diệt "quyền kháng cự" của tầng lớp quý tộc Magyar xưa.[44] Với việc vua Jan III Sobieski giúp quân Áo đuổi quân Thổ ra khỏi thành Viên thì Ba Lan trở thành một cường quốc quân sự lớn, nhưng giai đoạn phát triển của Ba Lan đã sắp chấm dứt. Vua Jan III Sobieski chỉ lo tìm kiếm vinh quang, mà ông ta không hề để tâm đến những vấn đề nội bộ. Song, ông ta vẫn cứ giành sức lực mà đánh quân Thổ Nhĩ Kỳ. Sau khi vua Jan III Sobieski qua đời vào năm 1696, Vương quốc Ba Lan và Đại Công quốc Litva suy yếu, chịu ảnh hưởng từ Nga.[45] Còn Đế quốc Thụy Điển thì suy vong nghiêm trọng sau những cuộc chiến của vua Karl XII (trị vì: 1697 - 1718).[46] Vị vua - chiến binh này trở thành "Hùng sư của phương Bắc" nhưng theo nhà triết học Voltaire, thất bại của ông đã để lại bài học cho đời sau.[47]

Với những cuộc đấu tranh anh dũng, nước Nga - quốc gia lớn nhất của châu Âu, vươn lên hàng liệt cường[48]. Nga hoàng Pyotr Đại Đế (trị vì: 1682 - 1725) là một vị vua lớn của Vương triều Romanov, có nhân cách khác thường. Trong các năm 1697 - 1697, ông viếng thăm các nước Tây Âu, và về nước với quyết định đổi mới đất nước, dựng nghiệp lớn xóa bỏ một nước Nga lạc hậu xưa cũ.[49] Ông học theo công nghệ Tây Âu và xây dựng Quân đội Nga và Hải quân Nga. Ông ao ước nước Nga có một cảng dễ thông thương với Tây Âu. Nhưng thời bấy giờ, một liệt cường châu Âu là Thụy Điển đã nắm quyền thống trị vùng Baltic. Trong một cuộc chiến lâu dài và khốc liệt với quân Thụy Điển, ông bị quân Thụy Điển ít ỏi hơn của vua Karl XII đánh bại trong trận Narva (1700). Nhưng trong khi vua Karl XII xâm lược Ba Lan thì ông xuất binh đánh Thụy Điển, chiếm được nhiều vùng đất và phát triển quân đội.[50] Cuối cùng, với chiến thắng oanh liệt trong trận Poltava vào năm 1709, ông đưa nước Nga vươn lên và xóa bỏ vai trò liệt cường của Thụy Điển.[51] Vinh quang của vua Karl XII đã vĩnh viễn bị phá vỡ tại đây.[52] Khi vua Karl XII chết vào năm 1718, quân Nga vẫn đánh phá dữ dội vào Vương quốc Thụy Điển.[53] Với Hiệp định Nga - Thụy Điển vào năm 1721,[54] ông giành chiến thắng và chiếm được những vùng đất mà ông mong muốn. Ông xây dựng kinh thành Sankt-Peterburg vào năm 1703, để cho nước Nga dễ bề nhìn về phương Tây. Ông qua đời vào năm 1725, với Đế quốc Nga trở nên hùng mạnh.[55] Các vị Nữ hoàng Nga Anna, Elizaveta PetrovnaEkaterina II đều lên ngôi với sự hỗ trợ của quân đội.[56] Cũng giống như vua Friedrich II Đại Đế của Phổ, danh tướng Nga Pyotr Aleksandrovich Rumyantsev là một bậc thầy truyền cảm binh sĩ, do đó ông rất được lòng toàn quân.[57]

Vua Friedrich II Đại Đế viết tác phẩm "Chống chủ nghĩa Quyền thuật" (Anti-Machiavel) vào năm 1739, theo đó ông tố cáo những tư tưởng chuyên chế của Machiavelli.[58] Song, ông còn là một trong những vị "Đại Danh tướng" (Great Captains) hiếm có trong lịch sử.[59] Những chiến công hiển hách của ông giúp ông trở thành "nhân vật số một của thế kỷ".[60]

Tuy là một quốc gia bé nhỏ, nước Vương quốc Phổ - Brandenburg vươn lên phát triển cường thịnh, lên tới cực điểm vinh quang vào thế kỷ 18.[48] Các đời vua Phổ lập nên một bộ máy hành chính vô cùng hữu hiệu, với một lực lượng quân đội thường trực.[44] Các vua Friedrich I (trị vì: 1688 - 1713) và Friedrich Wilhelm I (trị vì: 1713 - 1740) xây dựng đất nước. Nước Phổ tham gia liên minh trong cuộc Chiến tranh Kế vị Tây Ban NhaĐại chiến Bắc Âu, mang lại những thành quả quan trọng là chiếm được các xứ Tây PomeraniaStettin. Thời bấy giờ, các Sĩ quan Quân đội Phổ học được những bí quyết đểJohn Churchill, Quận công Marlborough thứ nhất đánh tan tác quân Pháp của vua Louis XIV, góp phần xây dựng truyền thống quân sự Phổ.[61] Kỷ luật khe khắt của Quân đội Phổ, lòng trung thành của thần dân đối với Vương triều, và những phát triển của văn hóa - giáo dục đã làm nên một "hào khí Phổ" có một không hai.[62]

Vua Friedrich II Đại Đế (trị vì: 1740 - 1786), để "gặt hái huy hoàng", đã tiến hành chinh phạt tỉnh Silesia của Áo vào năm 1740,[63] và giữ vững tỉnh này sau hai cuộc chiến tranh Silesia đầu tiên (1740 - 1745).[64] Với những chiến thắng lừng lẫy của ông trong các trận đánh tại Hohenfriedberg, SoorHennesdorf, người châu Âu tin ông bất khả chiến bại.[65][66] Nước Phổ vươn lên thành một liệt cường trên đất Đức và cả châu Âu, và giờ đây người chiến binh tham vọng ngồi trên ngai vàng Phổ lại trở thành một vị Quốc vương sáng suốt, hiếu hòa, tiếp cận với chủ nghĩa nhân đạotriết học trong những năm tháng vàng son của ông tại Cung điện Sans Souci, Potsdam.[67][68] "Nhà triết học khu Sans Souci" naỳ trở thành bạn thần của nhà triết học Pháp nổi tiếng của trào lưu Khai sáng khi ấy là Voltaire. Là một người độc lập tư tưởng và là người con của trào lưu Khai sáng,[69] ông luôn luôn thán phục thiên tài của đại văn hào Voltaire.[70] Ông cũng viết văn, theo thuyết khuyển nho hóm hỉnh, và cải cách Luật pháp.[60]

Là một vị vua vĩ đại và chiến thắng, Ông rất được lòng toàn quân và toàn dân, do đó chủ nghĩa yêu nước bắt đầu có mầm mống ở Vương quốc Phổ.[71][72] Với một cường quốc mới mẻ thì vua Friedrich II Đại Đế cũng phải đương đầu với những thử thách trên chính trường Âu châu.[73] Trong cuộc Chiến tranh Bảy năm (1756 - 1763), ông phải liên minh với Anh để chống nhau với đại liên quân Áo - Nga - Pháp - Thụy Điển - Sachsen để bảo vệ uy thế của đất nước.[73][74] Những chiến thắng oanh liệt của Quân đội Phổ trong các trận đánh tại Rossbach, Leuthen hay Liegnitz đem lại niềm vinh quang cho họ,[71] và thậm chí cho toàn bộ dân tộc Đức.[75] Với chiến thuật "đánh dọc sườn",[76] chiến thắng tại Leuthen của ông trở thành trận thắng hiển hách nhất thời đại.[77] Trong các năm 1762 - 1763, liên quân Anh - Phổ tan rã, trong khi nước Nga và Thụy Điển đều rút khỏi chiến tranh.[78] Trong khi Anh Quốc chiếm được nhiều thuộc địa,[79] quân Phổ đánh tan tác quân Áo, các nước chư hầu Đức của Áo sẵn sàng đàm phán với vua Phổ. Ba nước Áo, Phổ và Sachsen ký kết Hiệp định Hubertusburg (1763), lòng quyết chí của vua Friedrich II Đại Đế đã đem lại toàn thắng cho ông.[80] Thế bá chủ của Pháp khi xưa, nay bị phá vỡ, danh tiếng của nước Phổ vang xa.[81] Nhà vua có được danh tiếng chính trị.[82]

Do nước Phổ bị cô lập nên nhà vua liên minh với Nga vào năm 1764.[83] Vào năm 1772, ba nền quân chủ lớn của châu Âu khi đó là Phổ, Áo và Nga tiến hành cuộc chia cắt Ba Lan lần thứ nhất, với lợi thế lớn lao của nước Phổ.[84] Nhiều người Do Thái Ba Lan đã di cư tới Tây Âu, lập nên các cộng đồng Do Thái tại các địa điểm trước đây họ đã bị trục xuất đi trong Thời Trung Cổ. Trong các thập niên 17701780, dưới triều vị Hoàng đế hiếu chiến Joseph II,[85] nước Áo theo đuổi một chính sách tham vọng, bị vua Friedrich II Đại Đế đẩy lùi trong cuộc Chiến tranh Kế vị Bayern (1778 - 1779).[86] Sau khi liên minh Áo - Nga được thiết lập để cô lập ông vào năm 1781, ông thiết lập "Liên minh các Vương hầu" (1785), một lần nữa đẩy lui Áo và cho thấy trong những ngày cuối đời mình, ông đã chìm đắm dưới ánh hoàng hôn chói lọi của một vị anh hùng dân tộc Đại Đức.[87] Ông qua đời vào năm 1786, và cháu ông là vua Friedrich Wilhelm II lên nối ngôi. Khác với người bác là vua Friedrich II Đại Đế, vua Friedrich Wilhelm II không hề có nhiệt huyết.[88] Trong giai đoạn này, Ba Lan lại bị chia cắt thêm hai lần nữa.[89] Vua Friedrich Wilhelm III lên thay, cũng chỉ phụ thuộc vào quần thần.[90]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Lịch_sử_châu_Âu http://historymedren.about.com/library/text/bltxtg... http://www.britannica.com/eb/article-58260/history... http://www.britannica.com/eb/article-9072150/Thirt... http://books.google.com/books?ie=UTF-8&vid=ISBN019... http://books.google.com/books?ie=UTF-8&vid=ISBN185... http://www.jimmyatkinson.com/papers/versaillestrea... http://www.justiniansflea.com/events.htm http://encarta.msn.com/encyclopedia_761575057_13/s... http://www.worldhistoricalatlas.com http://dpalm.med.uth.tmc.edu/courses/BT2003/BTstud...